Trang chủ / Thư viện / Học tiếng Nhật theo chủ đề / Học tiếng Nhật qua truyện cổ tích / Học tiếng Nhật qua truyện cổ tích: Con chó và chiếc gương
Học tiếng Nhật qua truyện cổ tích

Học tiếng Nhật qua truyện cổ tích: Con chó và chiếc gương

Thứ Tư, 03 Tháng Năm 2023
0/5 - (0 bình chọn)

Cùng Kosei học tiếng Nhật qua truyện cổ tích Con chó và chiếc gương nhé! Bạn đang muốn rèn luyện khả năng dokkai của mình, nhưng đã cày hết chỗ giáo trình và chưa biết tìm nguồn đọc phù hợp ở đâu nữa? Học tiếng Nhật qua truyện cổ tích sẽ là câu trả lời phù hợp với bạn!

Con chó và chiếc gương

 

học tiếng nhật qua truyện cổ tích con chó và chiếc gương

むかしむかし、吉四六(きっちょむ)さんと言(い)う、とてもゆかいな人(ひと)がいました。

Ngày xửa ngày xưa, có một người rất hài hước được gọi là Kicchomu.  

ある年(とし)の暮(く)れの事(こと)、吉四六(きっちょむ)さんがお正月(しょうがつ)に必要(ひつよう)な物(もの)を町(まち)へ買(か)いに来(き)ていると、突然横道(とつぜんよこみち)から女(おんな)の子(こ)の泣(な)き声(こえ)がして、続(つづ)いて大勢(おおぜい)の子(こ)どもたちが騒(さわ)ぐ声(こえ)が聞(き)こえて来(き)ました。

Chuyện xảy ra vào một năm nọ, khi Kicchomu ra phố mua những đồ đạc cần thiết cho ngày Tết, đột nhiên cậu nghe thấy tiếng khóc của một bé gái từ phía bên kia đường và sau đó cả những tiếng xôn xao của đám trẻ con.  

「はて、何事(なにごと)だろう?」

Này, có chuyện gì vậy?  

吉四六(きっちょむ)さんが急(いそ)いでその横道(よこみち)に入(はい)ってみると、子(こ)どもたちがある侍屋敷(さむらいやしき)の裏門(うらもん)の周(まわ)りに集(あつ)まって騒(さわ)いでいるのです。

Kicchomu nhanh chóng đi sang bên kia đường, lũ trẻ đang tập trung xung quanh cổng sau của căn nhà Samurai và xôn xao.  

後(うし)ろからのぞいてみると、門(もん)のわきにつないである一匹(いっぴき)の猛犬(もうけん)が、きれいなマリをくわえて子(こ)どもたちをにらみつけながら、

「ウー! ウー!」と、うなり声(ごえ)をあげているのです。

Từ phía sau, một con chó dữ đang gầm gừ nhìn lũ trẻ và cô bé Mari xinh xẵn và sủa: “Gâu, Gâu”.  

吉四六(きっちょむ)さんが子(こ)どもたちに話(はなし)を聞(き)いてみると、この町(まち)の油屋(あぶらや)の娘(むすめ)が落(お)とした大切(たいせつ)なマリを、犬(いぬ)がくわえて放(はな)さないというのです。

Kicchomu thử hỏi chuyện lũ trẻ, con chó không chịu nhả Mari- đồ chơi của con gái của tiệm dầu trong phố ra.  

子(こ)ども好(ず)きの吉四六(きっちょむ)さんは、泣(な)いている油屋(あぶらや)の娘(むすめ)に言(い)いました。

「よしよし、心配(しんぱい)するな。おじさんが取(と)ってやるからな」

Kicchomu là người rất yêu quý trẻ em, nên cậu nói với cô bé:

Không sao, không sao, đừng lo lắng, chú sẽ lấy nó ra cho cháu.  

 吉四六(きっちょむ)さんは犬(いぬ)に手(て)を出(だ)して、犬(いぬ)をなだめようとしましたが、

「ウッーー!」

Kicchomu đưa tay ra, dỗ dành con chó

“Gâu”  

犬(いぬ)はせっかく手(て)に入(い)れたおもちゃを取(と)られると思(おも)い、ちょっとでも近(ちか)づくと噛(か)みつく姿勢(しせい)を取(と)ります。

Kicchomu nghĩ rằng có thể lấy được đồ chơi trong tay, nhưng chỉ tiến lại gần con chó một chút, nó lại nghiến răng.  

「こりゃ、知(し)らない人(ひと)では駄目(だめ)だな。飼(か)い主(ぬし)でなくては」

Người không biết thì không được rồi. Phải tìm chủ nuôi của con chó thôi.  

吉四六(きっちょむ)さんは家(いえ)の中(なか)に声(こえ)をかけましたが、あいにくとみんな出(で)かけているらしく、家(いえ)には一人もいません。

Nói xong, Kicchomu gọi vào trong căn nhà, thật không may dường như mọi người đều ra ngoài, trong nhà không có một ai.  

「こうなると、エサでつるしかないな」

Nếu mà như thế, thì chỉ đành phải cho nó ăn thôi.  

そこで吉四六(きっちょむ)さんは、正月用(しょうがつよう)に買(か)ってきたおもちを一(ひと)つ、犬(いぬ)に放(ほう)り投(な)げたのですが、この犬(いぬ)は普段(ふだん)から良(よ)くしつけてあるので、飼(か)い主(ぬし)がやるエサしか食べないようです。

Sau đó, Kicchomu mang một chiếc bánh mochi mình mua cho ngày Tết, ném cho con chó. Nhưng vì con chó ấy bình thường được nuôi rất có kỷ luật, được chủ chỉ cho ăn thức ăn riêng cho nó.  

さすがの吉四六(きっちょむ)さんも、相手(あいて)が犬(いぬ)ではいつものとんちが働(はたら)きません。

Vì vậy mà Kicchomu và mọi người không biết làm gì được.  

油屋(あぶらや)の娘(むすめ)を見(み)ると、吉四六(きっちょむ)さんが何(なん)とかしてくれると思(おも)い、真(ま)っ直ぐな目(め)でじっと吉四六(きっちょむ)さんを見(み)つめています。

Nhìn sang cô bé gái nhà bán dầu, Kicchomu nghĩ điều gì đó, cô bé cũng nhìn thẳng vào anh.  

「うーん、これは難題(なんだい)だな」

Uh, cái này rắc rối thật rồi.  

しばらくの間(あいだ)、犬(いぬ)の顔(かお)をじっと見(み)つめていた吉四六(きっちょむ)さんは、

「あ、そうだ! 確(たし)か買(か)った物(もの)の中(なか)に、嫁(よめ)さんに頼(たの)まれていたあれがあるはず」

Chẳng bao lâu sau, chợt nghĩ ra điều gì đó, Kicchomu nhìn thẳng vào mặt con chó

“A, có cách rồi, có một thứ trong số đồ toi mua tặng cho vợ có thể dùng được”  

吉四六(きっちょむ)さんは荷物(にもつ)の中(なか)から何(なに)かを取(と)り出(だ)すと、すたすたと犬(いぬ)に近(ちか)づいて、取(と)り出(だ)したある物(もの)を犬(いぬ)の鼻先(はなさき)にさし向(む)けました。

Từ trong hành lý của mình, Kicchomu lấy ra một cái gì đó, từng bước tiến lại gần con chó, và cậu lấy vật đó hướng tới trước mũi con chó  

すると犬(いぬ)は驚(おどろ)いて、「ワン!」と、吠(ほ)えたのです。

Ngay lập tức, con chó giật mình sủa: “Gâu”  

そのとたんマリは犬(いぬ)の口(くち)から離(はな)れて、コロコロと吉四六(きっちょむ)さんの前(まえ)に転(ころ)がってきました。

Ngay sau đó, con chó nhả Mari ra, và nó lăn qua trước mặt Kicchomu.  

吉四六さんは素早(すばや)くマリを拾(ひろ)い上(あ)げると、喜(よろこ)ぶ油屋(あぶらや)の娘(むすめ)にマリを返(かえ)してあげした。

Kicchomu nhặt Mari lên, và trả cho cô bé con tiệm dầu đang rất vui mừng.  

「おじさん、ありがとう。でも、何(なん)で犬(いぬ)はマリを放(はな)してくれたの?」

尋(たず)ねる油屋(あぶらや)の娘(むすめ)に、吉四六(きっちょむ)さんはさっき犬(いぬ)に見(み)せた物(もの)を見(み)せました。

Cô bé tiệm dầu cảm ơn cậu:

“Cảm ơn chú ạ, nhưng mà sao con chó lại thả Mari ra vậy ạ”

Kicchomu đưa thứ vừa cho con chó nhìn qua cho cô bé.  

「あ、かがみだ!」

A. Là cái gương  

犬(いぬ)はかがみに映(うつ)った自分(じぶん)の姿(すがた)を見(み)て、かがみの中(なか)に別(べつ)の犬(いぬ)がいると思(おも)い、その犬(いぬ)に向(む)かって吠(ほ)えたのでした。

Con chó khi nhìn thấy bóng của chính mình phản chiếu trong gương, nó sẽ nghĩ răng trong gương có một con chó khác, và sẽ sủa với con chó đó.

おしまい

- HẾT -

Cùng Trung tâm tiếng Nhật Kosei học tiếng Nhật qua nhiều câu chuyện hấp dẫn khác nhé:

>>> Học tiếng Nhật qua truyện cổ tích: Nước kẹo độc

>>> Khóa học N3 Online

>>> 10 cách thể hiện cảm xúc thông thường trong tiếng Nhật

>>> Một số câu hỏi khi phỏng vấn bằng tiếng Nhật

Để lại Đánh giá
Đánh giá*
Họ tên *
Email *
Bài viết mới
Chọn bài viết hiển thị