Học tiếng Nhật qua truyện cổ tích: ジャック・オー・ランタン
Cùng Kosei luyện nghe và luyện đọc tiếng Nhật qua chuyên mục học tiếng Nhật qua truyện cổ tích với câu chuyện: ジャック・オー・ランタン để tìm hiểu nhé! Chắc hẳn chúng ta đều biết đến hình ảnh đèn lồng bí ngô mỗi dịp Halloween phải không? Nhưng bạn có biết câu truyện bắt nguồn từ trái bí ngô này không?
ジャック・オー・ランタン
Đèn lồng bí ngô
むかしむかし、人(ひと)をだます事(こと)が得意(とくい)なジャックという男がいました。
Ngày xửa ngày xưa, có một chàng trai nó tên là Jack, rất giỏi lừa gạt người khác.
ある日、地獄(じごく)から悪魔(あくま)がやって来(き)てジャックに言いました。
Một ngày nọ, có một con quỷ đến từ địa ngục nói với Jack.
「おい、お前(まえ)が人(ひと)をだます事(こと)が得意(とくい)なジャックだな。よしよし、お前(まえ)の様(よう)な悪人(あくにん)の魂(たましい)は高(たか)く売(う)れるからおれさまが買(か)ってやろう。いくらだ?」
Này, ngươi là tên Jack hay lừa gạt mọi người đúng không? Ta đến từ địa ngục để mua những kẻ xấu xa như ngươi vì ngươi sẽ bán được giá cao hơn? Vậy ngươi đáng giá bao nhiêu?
悪魔(あくま)に魂(たましい)を買(か)うと言(い)われてジャックはびっくりしましたが、
Jack rất ngạc nhiên khi biết được nhóm ma quỷ đến để mua linh hồn.
(どうせ、おれは悪人(あくにん)だから死(し)んだら地獄行(じごくゆ)きだ。それならこの悪魔(あくま)を利用(りよう)して、死(し)ぬ前(まえ)に遊(あそ)びたおそう)と、考(かんが)え、悪魔(あくま)にこう言(い)いました。
Hắn suy nghĩ, rồi nói với đám ma quỷ: “Dù sao thì tôi cũng là người xấu, sau khi chết đi tôi sẽ phải xuống địa ngục. Sau đó sẽ được dùng như một tên ma quỷ thế nên tôi quyết định sẽ chơi cho đến trước khi tôi chết).
「おれの魂(たましい)を買(か)うと言(い)うのなら、代金(だいきん)は銀貨(ぎんか)だ。それも、使(つか)っても使(つか)っても財布(さいふ)からなくならない銀貨(ぎんか)にしてくれ。そしたら10年後(ねんご)、おれの魂(たましい)をあんたにやろう」
Nếu ngươi nói rằng ngươi muốn mua linh hồn của ta, thì giá sẽ là một đồng xu. Hơn nữa, dù có dùng đi chăng nữa thì ta cũng sẽ cất đồng xu đó trong ví mà không dùng. 10 năm sau, tôi sẽ bán linh hồn cho ngươi.
「よし、それでは10年間(ねんかん)、おれがなくならない銀貨(ぎんか)になってやろう」
Được thôi, vậy trong 10 năm này, ta sẽ trở thành một đồng xu mà không thay đổi.
悪魔(あくま)はそう言(い)うと銀貨(ぎんか)に変身(へんしん)して、ジャックの財布(さいふ)の中(なか)に飛び込(こ)みました。
Sau khi nói vậy, tên ma quỷ biến thành đồng xu và vào trong ví của Jack.
それからジャックは、使(つか)っても使(つか)っても数(かず)がへらない悪魔(あくま)の銀貨(ぎんか)を使(つか)って遊(あそ)び回(まわ)りました。
Từ đó về sau, Jack chơi đùa với những đồng xu ma quỷ và cố gắng không làm hỏng nó.
そして10年後(ねんご)、悪魔(あくま)の銀貨(ぎんか)が財布(さいふ)から飛(と)び出(だ)してきて、元(もと)の姿(すがた)に戻(もど)りました。
Và mười năm sau, đồng xu ma quỷ nhảy ra khỏi chiếc ví và trở về hình dạng ban đầu của mình.
「どうだジャック、10年間(ねんかん)を楽(たの)しんだか? さて、約束通(やくそくどお)りお前(まえ)の魂(たましい)をもらうよ」
Thế nào Jack, 10 năm qua sống có vui không? Nào, hãy làm như lời hứa của ngươi, bán linh hồn cho ta nào.
「ああ、約束(やくそく)だから魂(たましい)を持(も)って行(い)くがいい」
Theo lời hứa đó, ta sẽ lấy linh hồn của ngươi đi.
「ただ、約束(やくそく)したのは10年前(ねんまえ)のお昼過(ひるす)ぎで、今(いま)はまだお昼前(ひるまえ)だ」
Nhưng mà 10 năm trước tôi hứa vào buổi chiều, bây giờ vẫn còn là buổi trưa thôi mà.
「魂(たましい)を取(と)られる前(まえ)に最後(さいご)の食事(しょくじ)をしたいから、あのリンゴの木(き)になっているリンゴを取(と)ってくれないか?」
Trước khi lấy linh hồn tôi muốn ăn một bữa ăn cuối cùng, bạn có thể lấy cho tôi trái táo trên cây táo đằng kia được không?
ジャックはそう言って、一本のリンゴの木(き)を指(ゆび)さしました。
Jack nói như vậy, rồi chỉ tay vào một cây táo.
「そうか。それなら最後(さいご)の食事(しょくじ)を楽(たの)しむといい」
Vậy sao, nếu thế thì ta sẽ cho ngươi được thưởng thức bữa ăn cuối cùng này.
悪魔(あくま)はそう言(い)うとリンゴの木(き)に登(のぼ)って、低(ひく)いところにあるリンゴの実(み)を取(と)ろうとしました。
Ma quỷ nói xong rồi nhảy lên cây, lấy một quả táo ở một cành cây thấp.
するとジャックが、上(うえ)を指(ゆび)さして言(い)います。
Ngay lập tức, Jack chỉ tay lên vào nói.
「それはまだ小(ちい)さい。最後(さいご)の食事(しょくじ)だから、もっと大(おお)きいリンゴが欲(ほ)しい」
Trái đó nhỏ quá, vì là bữa ăn cuối cùng nên tôi muốn ăn một trái táo lớn một chút.
「では、これか?」
Thế, trái này thì sao?
「いいや、それではまだ小さい。もっと上(うえ)の、あの葉(は)っぱの奥(おく)にあるリンゴだ」
Không được, trái đó vẫn còn nhỏ lắm. Hãy trèo cao lên một chút nữa, trái táo ở sau chiếc lá đó.
「よし、あの葉(は)っぱの奥(おく)だな」
Được rồi, trái táo ở sau chiếc lá.
悪魔(あくま)はさらにリンゴの木(き)を登(のぼ)って、ジャックが指(ゆび)さしている葉(は)っぱをめくってみました。
Ma quỷ tiếp tục trèo lên cây táo và lật lại chiếc lá được Jack chỉ.
そして葉(は)っぱの奥(おく)にある物(もの)を見(み)てびっくりです。
Nó nhìn vào đằng sau chiếc lá và giật mình hét lên.
「うぎゃーーー! 十字架(じゅうじか)だー!」
A! Là cây thánh giá!
何(なん)と葉(は)っぱの裏(うら)の枝(えだ)に、十字架(じゅうじか)が彫(ほ)ってあったのです。
Trên cành cây đằng sau chiếc lá, được khắc lên hình một cây thánh giá.
実(じつ)はこの十字架(じゅうじか)、昨日(きのう)のうちにジャックが木(き)に登(のぼ)って彫(ほ)り刻(きざ)んだ物でした。
Thực ra, cây thánh giá này được Jack khắc lên cây vào ngày hôm qua.
十字架(じゅうじか)を見(み)た悪魔(あくま)は恐怖(きょうふ)で体(からだ)が固(かた)まってしまい、その場から動(うご)く事(こと)が出来(でき)ません。
Ma quỷ sau khi nhìn thấy cây thánh giá, cả cơ thể trở nên đông cứng, nó không thể cử động được.
悪魔(あくま)は、なさけない声でジャックに頼(たの)みました。
Sau đó, ác ma nói với Jack với một giọng yếu ớt.
「ジャッ、ジャックさん。どうか助けてください」
Jack, Jack. Hãy cứu tôi!
「ああ、助(たす)けてやってもいいが、おれの魂(たましい)を取(と)る事(こと)をあきらめるかい?」
À. Cứu ngươi cũng được thôi nhưng ngươi phải từ bỏ việc lấy linh hồn của ta.
「はい、あきらめます。あきらめますから、早(はや)く助(たす)けてください」
Được, tôi sẽ từ bỏ, tôi sẽ từ bỏ mà, làm ơn hãy cứu tôi nhanh lên.
「よし。だが、どうせおれは地獄行(じごくゆ)きだ。だから、死(し)んでも地獄(じごく)へ行(い)かなくてもすむ様(よう)にしてくれないか?」
Được thôi. Nhưng mà, dù sao khi ta chết cũng đi xuống địa ngục. Nhưng nếu ta chết, ngươi có thể giúp ta không xuống địa ngục được không?
「えっ? それはちゃっと・・・」
À. Cái đó có chút khó,...
「いやなのかい? いやなら助(たす)けてあげないよ」
Không được sao? Nếu không được thì ta không cứu ngươi nữa.
「ひぇー! 分(わ)かりました。死(し)んでも地獄(じごく)へ行(い)かなくてもすむようにします」
Haiz, tôi biết rồi. Dù có chết cũng không xuống địa ngục.
「口約束(くちやくそく)では駄目(だめ)だ。ちゃんと契約書(けいやくしょ)を書(か)いてもらうよ」
Không thể hứa miệng được. Phải viết hợp đồng rõ ràng.
こうしてジャックは悪魔(あくま)を助(たす)ける代(かわ)りに、死(し)んでも地獄(じごく)へ行(い)かなくてすむ契約書(けいやくしょ)を手(て)に入(い)れたのでした。
Đổi với việc cứu tên ma quỷ, Jack có một khế ước dù hắn có chết, cũng không phải xuống địa ngục.
さて、それから何十年(なんじゅうねん)か過(す)ぎて、とうとうジャックに寿命(じゅみょう)が来(き)ました。
Sau đó, Jack sống qua nhiều thập niên nữa, cuối cùng cũng đến ngày hết mệnh.
死んだジャックに地獄(じごく)からの使(つか)いが来(き)ましたが、ジャックが悪魔(あくま)との契約書(けいやくしょ)を見(み)せると、地獄(じごく)からの使(つか)いはあきらめて帰(かえ)っていきました。
Sau khi chết Jack được đưa xuống địa ngục. Jack đã cho lũ ma quỷ xem hợp đồng khi trước, và chúng đã phải từ bỏ việc dùng Jack trong địa ngục mà cho Jack quay trở lại.
「よしよし、これで地獄行(じごくゆ)きはまぬがれた。おれが行(い)くのは天国(てんごく)さ」
Vậy là tôi đã thoát khỏi địa ngục rồi, bây giờ tôi sẽ đi đến con đường vào thiên đường.
ジャックは天国(てんごく)へ行(い)くと中(なか)に入(はい)ろうとしましたが、天国(てんごく)の門番(もんばん)がジャックを中に入れてくれません。
Jack cố bước vào thiên đường nhưng người gác cổng thiên cung không cho hắn vào.
「お前(まえ)は多(おお)くの人(ひと)をだました悪人(あくにん)だ。天国(てんごく)へ入(い)れる事(こと)は出来(でき)ない」
「そっ、そんなー」
Ngươi là một người xấu, đã lừa gạt nhiều người. Ngươi không thể bước chân vào thiên đường này.
Nếu thế này thì...
こうしてジャックは、カブをくりぬいた中(なか)に石炭(せきたん)を入(い)れた明(あ)かりを持(も)って、地獄(じごく)と天国(てんごく)との道(みち)を今(いま)でも行(い)ったり来(き)たりしているそうです。
Sau đó, Jack làm thế này, hắn bới bên trong ruột củ cải lên và làm sáng lên bằng cách cho than vào đó, giống như hắn cứ đi đi lại lại trên con đường giữa thiên đường và địa ngục.
このジャックの持っているカブの明かりが、ジャックのちょうちんという意味の「ジャック・オー・ランタン」と呼ばれ、今ではハロウィンの重要(じゅうよう)なアイテムとなっています。
Ánh sáng trong củ cải này được gọi là “Jack O Lantern”, có ý nghĩa là đèn lồng của Jack, bây giờ nó đã trở thành một vật phẩm quan trọng của dịp lễ Halloween.
また、アメリカではカブよりカボチャが一般的(いっぱんてき)で、ちょうどハロウィンの時期(じき)にカボチャがたくさん取れるので、今ではカブではなくカボチャが一般的(いっぱんてき)になりました。
Ngoài ra, ở Mỹ người ta thường sử dụng quả bí ngô phổ biến hơn là củ cải. Vào đúng dịp Halloween, mọi người sẽ lấy rất nhiều trái bí ngô, cho đến bây giờ, mọi người hầu như không còn dùng củ cải nữa, mà thay vào đó sẽ dùng trái bí ngô để thay thế.
おしまい
- HẾT -
Cùng Trung tâm tiếng Nhật Kosei học tiếng Nhật qua nhiều câu truyện cổ tích khác nữa nhé:
>>> Học tiếng Nhật qua truyện cổ tích : おむすびころりん
Cùng Kosei tìm lại tuổi thơ với học tiếng Nhật qua truyện cổ tích "Rapulzel - Công chúa tóc mây" rất dễ thương này nhé! Chắc hẳn với fan của Disney thì bộ phim "Công chúa tóc mây" đã gắn liền trong kí ức tuổi mộng mơ rồi đúng không nào?
hiennguyen
kosei
kosei
kosei
kosei
kosei